Nằm ven bờ Biển Đông quanh năm cuồn cuộn sóng, đất nước ta đã
và đang phải đương đầu với những cơn cuồng nộ của thiên nhiên nhằm trả
thù hành vi dại dột của con người triền miên phá hủy môi trường sống của
chính mình.
Những nguy cơ của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang trực tiếp
tác động vào cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta. Đối diện với hiểm
họa đó, ở phương Tây, sinh thái học từ một lĩnh vực triết lý trở thành một phong trào xã hội
nhằm tái lập cuộc đối thoại giữa con người, xã hội với thiên nhiên mà
thời đại công nghiệp đã phũ phàng vứt bỏ. Triết lý ấy lập luận rằng người, thiên nhiên và các sinh vật chỉ là những hình thái sống khác nhau mà thôi.
Một vị đại biểu của triết lý này, Michel Serres, quan niệm rằng: “Ta
đánh mất vũ trụ(…). Ta biến tất cả sự vật thành hàng hóa…Vũ trụ (…) tự
cống hiến nó cho chúng ta. Sẽ có sự bất công, sẽ có sự bất quân bình nếu
ta nhận sự cống hiến đó một cách miễn phí, không trả lại cái gì cả. Sự
công bằng buộc chung ta phải trả, ít nhất là ngang mức ta nhận, nghĩa là
vừa đủ”.
Phát triển hướng tư duy đó, Aldo Leopold tiếp tục đưa ra một quan điểm đạo đức “Một
việc là tốt, là thiện, nếu có khuynh hướng bảo tồn sự toàn vẹn, sự vững
chắc và vẻ đẹp của cộng đồng sinh thái. Một việc là xấu, là ác, nếu
trái lại!”
Lévi Strauss còn mạnh mẽ hơn, triệt để hơn khi ông phê bình gay gắt
triết lý về chủ thể đã biến con người thành chúa tể thống trị một cõi
riêng, giam con người trong lãnh địa văn minh của mình, tách biệt khỏi
thiên nhiên vì thiên nhiên bị xem như “không có văn hóa”. Chỉ
con người là có văn hóa, vì thế con người tách mình khỏi thiên nhiên.
Cái luận đề đó hình thành đổng thời với quá trình đô thị hóa ở châu Âu,
song song với đà phát triển văn minh công nghiệp đã cắt đứt con người
thành thị ra khỏi giới tự nhiên. Kết quả, con người đã hủy diệt tất cả
những gì không phải là chính mình, bắt đầu từ thiên nhiên ấy.
Nếu phương Tây phải tốn hai mươi thế kỷ để bắt đầu nhìn thấy và quyết
liệt cảnh báo thì ở phương Đông, vấn đề ấy đã được đặt ra từ rất lâu,
với ứng xử quen thuộc:Tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên. Quan điểm ấy là xuyên suốt, chủ đạo trong triết học nhà Phật: “Cây cỏ, đất đá, đồi núi, tất cả yếu tố của vũ trụ đều có Phật tính”. Và rồi, văn hóa dân gian Việt Nam cũng biểu đạt triết lý ấy, nhưng giản đơn hơn: “Người ta là hoa của đất”.
Ở Việt Nam, còn vô khối câu ca dao cổ biểu tả sự gắn bó giữa con người với tự nhiên, chẳng hạn một chuyện tình: “Trèo
lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân
nở ra xanh biếc. Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay. Ba đồng một mớ trầu
cay. Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không. Bây giờ em đã có chồng. Như
chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng
biết thuở nào ra?”. Miễn cho lời bình về nỗi đắng cay uất ức trong lòng cô gái trước sự “tiếc lắm thay” nhạt hều của chàng trai, chỉ xin được nói về thiên nhiên ngập tràn trong tình yêu của đôi trai gái ấy:
Nào hoa bưởi, hoa tầm xuân, nào cây cà, cây bưởi, nào con chim, con
cá… Cho dù có nỗi đau quằn quại của chim đã bị nhốt trong lồng, cá đã bị
móc vào lưỡi câu oan nghiệt, câu chuyện lứa đôi kia vẫn ngạt ngào mùi
hương hoa bưởi, vẫn “xanh biếc” màu xanh của “nụ tầm xuân” mới nở. Mà
nào có gì cao xa đâu, cũng chẳng hề biết đến cuộc tranh luận về “triết lý chủ thể” và “triết lý về sự sống”
[cho dù là cực kỳ cần thiết và phải biết trân trọng], đây là khung cảnh
hết sức gần gũi và quen thuộc của cuộc sống làng quê đã từng xao động
tâm hồn của mỗi chúng ta.
Thật ra, không tranh luận, nhưng nếu nói đến triết lý thì đây cũng là một triết lý tiềm ẩn trong tâm thức Việt đó là chữ “Hòa”.
“Hòa” trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên
nhiên, hòa trong chính mình. Đây là một đặc trưng của tính cách phương
Đông thể hiện trong lối sống và văn hóa Việt Nam. Triết lý ấy biểu hiện
một nếp tư duy thiên về tổng hợp, kết hợp hơn là phân tích chia cắt,
thiên về liên tục hơn là gián đoạn, thiên về tinh thần hơn là vật chất.
Đó là những gì ta cảm nhận từ lời mẹ dạy cho con, bà truyền cho cháu
qua lời ru, qua cách ứng xử giữa đời thường. Sự cảm nhận ấy đã truyền
đạt một cách dung dị hồn dân tộc trong cuộc sống, trong
không khí để thở, trong gầu nước giếng mát để uống, trong mùi thơm của
bát cơm gạo mới, vị ngọt của trái chín cây, mùi hương của hoa trong đêm…
Đời này qua đời khác kết nối những cảm nhận ấy lại như một thứ “gien”
di truyền, chìm sâu trong tâm thức của con người vốn đã sinh ra, hít thở
khí trời, uống dòng nước mát, ăn bát cơm thơm trên đồng đất quê hương.
Trân trọng giữ gìn, chăm chút cảnh sắc thiên nhiên quanh ta, một gốc cây, một ngọn cỏ, một nhành hoa, một ngọn lá… là cả một ứng xử văn hóa.
Ứng xử ấy cần trở thành một thói quen, một tập quán để định hình một
lối sống, một cách sống. Trong cái xô bồ của cuộc sống hiện tại, phải
thấy cho ra cái chữ “hòa” ấy trong cội nguồn văn hóa Việt Nam.
Thấy ra để làm gì? Để tự hào về ông cha mình, tự hào về dân tộc mình,
đồng thời cũng thấy được những khiếm khuyết mà càng thêm day dứt vì
chúng ta đã không thực hiện tốt lời răn dạy của ông cha. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Quyển III, Kỷ Nhà Lý, triều Lý Nhân Tông, chép rằng: “Năm Bính Ngọ [1126] “Mùa xuân, tháng giêng mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội (giam) ở phủ Đô hộ. Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây”. Bình về điều cấm này, giáo sư Cao Huy Thuần viết: “Luật
của cây cối là: xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn. Xuân sinh:
hãy nhìn một lộc non vừa nhú lên trong mùa xuân, bao nhiêu là hạnh phúc,
bao nhiêu là sức sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình sự
sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình mùa xuân. Chưa bao
giờ chân lý, thiện và mỹ được nâng cao đến mức ấy”.
“Được nâng cao đến mức ấy” tự bao giờ? Thưa rằng: từ cách
đây gần 900 năm, non một thiên niên kỷ! Thì ra, trong sâu thẳm của triết
lý nhân sinh, tư duy của loài người bắt gặp nhau ở những điểm tiệm cận
trên vòng xoáy trôn ốc của tiến trình phát triển. Ông cha ta từ xa xưa
đã có những phương cách bảo vệ môi trường sinh thái hữu hiệu, phù hợp
với trình độ phát triển của kinh tế. Đây là mức độ có thể đo đếm được
qua những chặng đường thời gian. Nhưng sự nông sâu trong triết lý, trong
nguồn mạch của tư duy thì không dễ gì đo đếm một cách thô thiển và vụng
dại được! Chính từ đây, từ cái mẫu số chung của thời đại mà suy ngẫm về
sựbắt gặp và nối liền nguồn mạch của tư duy hiện đại với sâu thẳm cội nguồn của triết lý đã dẫn dắt, tạo dựng, bảo vệ và phát triển non sông gấm vóc ông cha bao đời để lại cho thế hệ chúng ta hôm nay.
Với quá trình đô thị hóa một cách xô bồ thiếu sự cẩn trọng cần thiết,
rồi chuyện “công nghiệp hóa” tràn lan chưa có sự nghiêm túc và thật sự
khoa học trong tính toán, lại “hiện đại hóa” nóng vội, bộc lộ sự thiếu
hiểu biết, đã vô tình biến đất nước mình thành bãi thải công nghiệp,
thành phòng thí nghiệm cho những “dự án” hàm hồ mà cái giá phải trả là
rất đắt. Để rồi dòng người từ nông thôn hối hả chuyển vào đô thị gây nên
sự quá tải ngày càng trầm trọng về cơ sở hạ tầng, về chất lượng văn hóa
của cuộc sống. Xót xa nhất là dần dà nông thôn trở thành nơi không ai
muốn ở, nông nghiệp đang là ngành ít ai muốn đầu tư, nền văn hóa làng,
cội nguồn của bản sắc văn hóa Việt Nam đang bị mai một, những giá trị
truyền thống bị phôi pha, các thế hệ tương lai sẽ bỏ rơi nông thôn.
Tuy nhiên, với một nền tảng văn hiến được xây cất trên một triết lý “người ta là hoa của đất”, nếu biết định hình một chiến lược phát triển đất nước coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển, thì
sẽ tìm ra được một cách đi đúng, tránh những xô bồ chứa nhiều hiểm họa
như hiện nay. Văn hóa chính là chìa khóa mở ra cánh cửa cho những giải
pháp về kinh tế, xã hội trong sự phát triển của đất nước.
Để có thể là “chìa khóa”, phải thấy được văn hóa là một cấu trúc có
bề sâu. Cuộc sống nhân sinh được phản chiếu ở cả bề nổi và bề chìm. Dưới
tầng nước mặt, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường
tiềm ẩn, kỳ bí vô cùng và tưởng chừng như vô thức. Ở độ sâu này, có một
sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Chính
sự tiềm ẩn và tưởng như là vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân
tộc, làm nên bản lĩnh và cốt cách, tạo nên sức mạnh cho dân tộc ấy.
Chính vì lẽ đó, vun đắp văn hóa không thể làm theo cách ăn xổi ở thì
kiểu “mì ăn liền”. Văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu dài
lâu.
Để vun đắp một nền văn hóa ứng xử với tự nhiên, phải biết “thăm dò cái gốc của nó, lại phải tưới tắm cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải buông lơi cái dòng của nó”
như lời bàn của Nguyễn Văn Siêu, danh sĩ nổi tiếng Việt Nam cách đây
gần hai thế kỷ. Muốn làm được việc này, phải có thời gian, đổng thời cần
sự kiên tâm nhất định của những người làm công tác tuyên truyền, giáo
dục.
Smith Peter