Trong lịch sử,
những người lưỡng tính và vô tính có những đóng góp phi thường.
Alexandrer Đại Đế-
vị tướng tài ba đánh đâu thắng đó là một người lưỡng tính. Ở Việt Nam
cũng có một danh tướng thuộc thế giới thứ ba, đó là Thái úy Lý Thường
Kiệt. Ít ai biết rằng, trước khi lập được công lao hiển hách trong
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, chàng trai trẻ Ngô
Tuấn (tên thật của ông) đã phải từ bỏ vợ (2
người chưa kịp có con với nhau) để vào làm thái giám hầu cận nhà
vua, những mong có ngày lập công danh. Ở thời kỳ đó, khi chưa có chế
độ khoa cử (năm 1076 vua Lý Nhân Tông mới mở khoa thi đầu tiên) thì với
những người dân nghèo như Tuấn, chỉ còn cách đó tiến thân. Như vậy,
ngay từ năm 18 tuổi, Lý Thường Kiệt đã trở thành người vô tính.
Thời xưa, hoạn quan luôn là những người hầu cận có địa
vị thấp kém và bản thân họ, dù có được phú quý vinh hoa song việc bị khinh mệt
là vấn đề họ thường xuyên phải đối mặt. Song Lý Thường Kiệt đã cho các quần
thần một cái nhìn khác. Tài năng quân sự xuất chúng, những chiến tích lừng
lẫy của ông có lẽ khiến nhiều người phải kính nể. Dù là người vô
tính nhưng khí chất anh hùng của ông thì không mấy ai có được. Tôi
đặc biệt ấn tượng với việc ông đem quân sang đánh Trung Quốc ngay tại
đất đai của tổ tiên chúng. Cho đến nay, ông là người duy nhất làm
được việc này.
Lịch sử vinh danh những người như thái giám-
thái úy Lý Thường Kiệt!
Lý Thường Kiệt vốn thuộc họ Ngô,
tên thật là Tuấn, tự là Thường Kiệt, sau được ban quốc tính (được mang họ nhà
vua), nên gọi là Lý Thường Kiệt.
Quê gốc của ông là làng An Xá,
huyện Quảng Đức, kinh thành Thăng Long. Làng An Xá sau đổi tên là Phúc Xá (nay
thuộc quận Ba Đình).
Từ nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra
người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện cả văn lẫn võ, từng
nghiên cứu về binh pháp. Dưới
triều Lý Thái Tông, ông được bổ nhiệm giữ chức Kỵ mã hiệu úy (một chức quan nhỏ
trong kỵ binh), lúc ông 21 tuổi. Năm 1041, 23 tuổi, ông được sung vào ngạch thị
vệ để hầu vua, giữ chức Hoàng môn chi hậu, và được thăng dần lên chức Đô
tri, trông coi mọi việc trong cung.
Đầu triều Lý Thánh Tông, ông được
phong chức Bổng hành quân hiệu úy (một chức võ quan cao cấp), rồi được thăng
Kiểm hiệu thái bảo. Năm 1061, ông được lệnh cầm quân đi trấn yên Thanh - Nghệ.
Năm 1069, ông cầm quân đi đánh
Champa. Lần này vua Lý Thánh Tông thân chinh, Lý Thường Kiệt được phong đại
tướng, chỉ huy đội tiên phong tiến vào đại phá kinh thành. Quốc vương Champa bị
bắt đưa về Thăng Long, đã xin dâng đất để chuộc tội, gồm ba châu Bố Chánh, Địa
Lý, Ma Linh (nay là địa phận Quảng Bình và bắc Quảng Trị).
Sau khi toàn thắng, giữ yên được
biên giới phương Nam,
Lý Thường Kiệt được giao các chức vụ: Phụ quốc tháo phó và Phụ quốc Thượng
tướng quân, Thượng trụ quốc, Khai quốc công. Ít lâu sau ông lại được thăng chức
Thái úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (là chức quan thứ hai trong
triều), đứng sau chức Thái sư lúc ấy là do Lý Đạo Thành đảm nhiệm.
Năm 1072, Lý Thánh Tông từ trần. Lý
Nhân Tông lên nối ngôi khi mới có 7 tuổi. Trong khi ấy, chính quyền phương Bắc
vẫn luôn nhòm ngó. Chúng xem đây là một cơ hội tốt để tiến hành ráo riết việc
chuẩn bị xâm lược nước ta. Tại ba châu Ung, Khâm, Liêm (thuộc Quảng Đông ,
Quảng Tây ngày nay), chúng xây dựng những căn cứ quân sự và hậu to lớn để làm
nơi xuất phát trực tiếp cho các đạo quân xâm lược.
Lúc này, sau khi Lý Nhân Tông lên
ngôi, Lý Thường Kiệt được giữ chức Đôn quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ,
tược hiệu Thượng phụ công. Với cương vị như Tể tướng, ông nắm toàn quyền cả văn
lẫn võ. Điều có cũng có nghĩa là phải gánh vác nặng nề và chịu trách nhiệm to
lớn đối với giang sơn xã tắc. Ông nhận lấy sứ mệnh thiêng liêng, trực tiếp tổ
chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược.
Đứng trước âm mưu và hành động rõ
ràng công khai của địch, ông cho rằng: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem
quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc". Được triều đình tán thành, ông huy
động 10 vạn quân tiến hành một cuộc tập kích đánh thẳng vào các căn cứ chuẩn bị
xâm lược của kẻ thù ngay trên đất Tống.
Với danh nghĩa chính đáng là chỉ
đánh Tống để giữ nước là đưa quân tới là để cứu dân, Lý Thường Kiệt đã viết bài
hịch Phạt Tống lộ bố văn (bài văn công bố đánh giặc Tống) và cho yết bảng ở
khắp nơi mà quân đội ta đi qua.
Bài hịch truyền đi đã đạt hiệu quả
lớn: quân đội của Lý Thường Kiệt tiến đến đâu cũng đều được nhân dân Trung Hoa
ở đó hoan nghênh, hưởng ứng.
Quân Việt bắt đầu tiến công vào đất
Tống từ ngày 27 tháng 10 năm 1075. Thoạt tiên, quân Việt phá hủy một loạt các
đồn trại biên giới, rồi lần lượt đổ bộ lên cảng và đánh chiếm các thành Khâm,
Liêm. Sau đó đại quân tiếp tục tiến sâu vào đất địch.
Ngày 18 tháng 1 năm 1076 áp sát
thành Ung. Đây là căn cứ quan trọng nhất trong những căn cứ địch dùng cho cuộc
viễn chinh xâm lược vào Đại Việt. Sau 42 ngày vây hãm và tấn công quyết liệt,
ta hạ được thành, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch.
Theo chủ trương đã định, quân ta
được lệnh san bằng các thành lũy lớn nhỏ, tiêu huy các kho tàng lương thực, vũ
khí, giáng đòn sấm sét làm tổn thất nghiêm trọng các cơ sở vật chất và phương
tiện chiến tranh của địch, làm nhụt nhuệ của bọn cầm quyền phương Bắc trong
việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược.
Sau khi đã đạt mục tiêu của cuộc
đánh sang đất Tống, Lý Thường Kiệt quyết định rút nhanh quân về nước. Cuộc rút
quân rất đúng lúc, vừa bảo toàn được lực lượng, vừa phá được kế hiểm của giặc:
chúng định điều quân lẻn sang đánh úp Đại Việt nhân lúc đại quân còn đang ở bên
nước chúng.
Cuộc tập kích chiến lược đã giành
được thắng lợi hoàn toàn. Lịch sử ghi nhận chiến công kỳ diệu này, chiến công
có một không hai trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt.
Gắn liền với chiến công ấy, là tên tuổi vị chủ tướng tài ba Lý Thường Kiệt.
Nhà viết sử Ngô Thì Sĩ ca ngợi ông:
"bày trận đường đường, kéo cờ chính chính, mười vạn thẳng sâu vào đất
khách, phá quân ba châu như chẻ trúc, lúc tới còn không ai dám địch, lúc rút
quân còn không ai dám đuổi, dụng binh như thế, chẳng phải nước ta chưa từng có
bao giờ"? (Việt sử tiêu án).
Tuy bị thua đau, nhưng nhà Tống vẫn
rất ngoan cố. Lý Thường Kiệt biết chắc thế nào chúng cũng sẽ kéo quân sang phục
thù và tiếp tục thực hiện mục tiêu xâm lược mà chúng chưa bao giờ chịu từ bỏ.
Ông cử người vào đất Tống để theo
dõi cụ thể công việc chuẩn bị và kế hoạch xâm lược của quân Tống.
Ông tự mình đi xem xét vùng biên
cương phía nam và tăng cường lực lượng bố phòng ở đó nhằm chặn sự tiến công
quấy rối của quân Champa.
Ông bố trí kế hoạch cho các lực
lượng vũ trang địa phương, các thổ binh, hương binh ở vùng núi phía bắc làm
nhiệm vụ kiềm chế và tiêu hao địch trên các con đường tiến vào của chúng.
Ông tập trung xây dựng phòng tuyến
chính của quân ta dựa vào bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu), có rào giậu nhiều
tầng, chạy dài trên 200 dặm từ chân núi Tam Đảo đến sông Lục Đầu. Dưới sông có
thủy quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu. Với phòng tuyến này, quân ta
nắm chắc khả năng chặn địch, bảo vệ an toàn kinh thành Thăng Long và cả một
vùng trung châu rộng lớn và trù phú của đất nước.
Cuối năm 1076, đại quân Tống chia
làm nhiều cách vượt biên giới tiên ào ạt vào Đại Việt. Sau một tháng phải luôn
luôn đối phó với những cuộc chống trả quyết liệt của nhân dân Đại Việt trên
vùng biên giới và thượng du. Cuối cùng ngày 18 tháng 1 năm 1077, đại quân Tống
cũng tiến được tới bờ bắc sông Cầu. Nhưng đến đây, chúng đã bị chặn đứng lại.
Phòng tuyến sông Cầu sừng sững như một bức tường thành, vững chãi, uy nghiêm và
đầy thách thức. Chúng buộc phải dừng quân, tập kết trên một trận tuyến dài 30km
từ bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, để từ đó triển khai các đợt tiến
công sang phòng tuyến của quân Việt.
Một lần, chúng tập trung binh lực,
đột phá trận tuyến quân Việt ở bến đò Như Nguyệt, chọc thủng được một đoạn
phòng tuyến quân tiên phong của chúng tiến về phía Thăng Long. Nhưng quân Việt
do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã phản công kịch liệt. Chúng bị tổn thất nặng nề,
phải mở đường máu mà tháo chạy.
Lần khác, chúng lại mở đợt tấn công
mới. Với những bè lớn, mỗi bè trở được 500 quân qua sông, chúng liên tiếp đưa
những đạo quân mạnh đổ bộ lên bờ nam. Nhưng ở đây chúng lại đụng phải sức phản
công dữ dội của lực lượng chiến đấu dũng mãnh dưới sự chỉ huy linh hoạt sắc bén
của tướng quân Lý Thường Kiệt. Những đạo quân đổ bộ đều bị tiêu diệt hoặc phải
đầu hàng.
Vào lúc cuộc chiến ra vô cùng quyết
liệt, Lý Thường Kiệt đã viết Nam
quốc sơn hà - một bài thơ bất hủ để cổ vũ tinh thần binh sĩ. Tương truyền rằng
ông đã sai người giả làm thần nhân, nấp trong đền Truơng Hát ở bờ nam cửa sông
Như Nguyệt, đọc bài thơ này.
Theo sách Việt điện u linh thì
tướng quân Trương Hát là thần sông Như Nguyệt, chính thần nhân này đã được đọc
bài thơ trên. Sách còn nói: "Đang đêm nghe tiếng vang trong đền đọc bài
thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đẩm, không đánh cũng
tan".
Bài thơ Nam
quốc sơn hà khẳng định chân lý hùng hồn: Nước Nam là một quốc gia lãnh thổ riêng,
cương giới rạch ròi, quyền độc lập tự chủ của dân tộc là thiêng liêng bất khả
xâm phạm.
Bài thơ thể hiện khí phách hào hùng
về ý chí gang thép của dân tộc, cảnh cáo nghiêm khắc kẻ ngoại xâm, đồng thời cổ
vũ mạnh mẽ quân dân ta hăng hái chiến đấu, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi
hoàn toàn.
Đi vào lịch sử, bài thơ được coi
như bài Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta sau hơn một ngàn năm bị
phong kiến nước ngoài đô hộ.
Qua thực tế chiến trường trên phòng
tuyến sông Cầu, bài "thơ thần"đã truyền đi đã có một sức mạnh kỳ lạ,
làm nao núng tinh thần quân địch, làm tăng nhuệ khí và thêm sức chiến đấu cho
quân ta, trực tiếp góp phần làm xoay chuyển cục diện cuộc chiến đang trong giai
đoạn cực kỳ quyết liệt, tạo điều kiện cho cuộc phản công chiến lược giành thắng
lợi quyết định. Đó là cuộc phản công chiến lược do Lý Thường Kiệt chỉ huy, đại
quân ta vượt sông bất ngờ đánh úp vào doanh trại chính của địch. Theo Việt sử
lược thì quân Tống đại bại, bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười.
Sau chiến thắng trên, Lý Thường
Kiệt đã chủ động phái người sang sông gặp tướng chỉ huy quân Tống, đặt vấn đề
hòa giải nhằm sớm chấm dứt chiến tranh, với điều kiện là toàn bộ quân Tống phải
rút khỏi đất Việt.
Bọn chỉ huy quân Tống đang lúc
hoang mang cực độ trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, chúng vội vàng nhận
điều kiện trên và lập tức rút quân hồi tháng 3 năm 1077, không cần chờ lệnh của
triều đình nhà Tống.
Trong cuộc chiến đấu lần này, quân
dân Đại Việt đã tiêu diệt hơn 19.000 quân địch. Tính cả cuộc tập kích lần trước
vào Ung-Khâm-Liêm, quân Việt đã tiêu diệt gần 30.000 tên.
Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược nhà Tống (1075-1077) là một minh chứng hùng hồn về sự
phát triển vượt bậc của dân tộc Việt sau một thế kỷ giành độc lập, quốc gia Đại
Việt đã có đủ sức mạnh để chống lại một đế quốc lớn mạnh.
Làm nên thắng lợi, có công sức và
sự hy sinh to lớn của toàn dân đoàn kết, chiến đấu kiên cường, dũng cảm và mưu
trí sáng tạo. Làm nên thắng lợi, có cống hiến lớn lao của vị tướng tổng chỉ huy
Lý Thường Kiệt. Với tài năng thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh kiệt
xuất, luôn luôn thể hiện một tư tưởng tiến công rất cao trong chỉ đạo tác chiến,
ông liên tục tiến công kẻ thù: đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp
hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công,
đánh ngay vào đội quân mạnh nhất của địch, ngay trên hướng tiến công chủ yếu
của chúng. Ông khéo kết hợp giữa tiến công và phòng ngự tích cực, giữa các cách
đánh tập trung, đánh trận địa và đánh vận động. Ông vận dụng tài tình sự kết
hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao.
Non sông sạch bóng quân thù. Lúc
này vua mới 12 tuổi. Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh trách nhiệm lớn của triều
đình trong công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo đời sống nhân dân. Ông đã cho
tu bổ đê điều, đường sá, đình chùa hư hỏng trong chiến tranh và tiến hành nhiều
biện pháp nhằm cải tổ bộ máy hành chính trong toàn quốc.
Năm 1028, ông thôi chức Tể tướng và
được cử về trị nhậm trấn Thanh Hóa. Làm việc ở đây suốt 19 năm trời, đến năm
1101 thì vua Lý Nhân Tông lại mời ông trở lại về triều giữ lại chức Tể tướng.
Lúc này ông đã 82 tuổi.
Già rồi, nhưng ông vẫn tình nguyện
cầm quân đi đánh giặc Lý Giác ở Diễn Châu (năm 1103), dẹp giặc Chiêm Thành quấy
nhiễu ở Bố Chính (năm 1104). Ông còn tổ chức lại quân đội, duyệt đổi lại các
đơn vị từ cấm binh đến dân quân.
Lý Thường Kiệt là một trọng thần đã
trải ba triều vua (Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông), luôn luôn được
triều đình tin tưởng, nể trọng.
Từ đời Lý Thánh Tông, ông đã được
cất lên ngang hàng các hoàng tử, được vua nhận làm con nuôi và ban hiệu Thiên
tử nghĩa nam. Đời Lý Nhân Tông, ông được nhà vua coi như em và ban hiệu Thiên
tử nghĩa đệ
Ông mất năm 1105, thọ 86 tuổi. Khi
mất được phong tặng Kiểm hiệu Thái úy bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc
công, được lập đền thờ ở nhiều nơi.
Lý Thường Kiệt là một nhà quân sự
kiệt xuất, có tài thao lược lỗi lạc, phá Tống bình Chiêm, đánh đâu thắng đấy.
Ông cũng là một nhà chính trị tài giỏi và ngoại giao xuất sắc. Về văn học, ông
để lại cho đời bài thơ bất hủ Nam
quốc sơn hà, tác phẩm nổi tiếng nhất đời Lý và bài hịch hùng tráng Phạt Tống lộ
bố văn.
Ông là một nhân cách lớn. Văn bia
chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi ông như sau:
"Làm việc thì siêng năng, điều
khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ,
nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ gian
ác, đem minh chứng để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm.
Thái úy biết rằng dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên
không để nỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang. Nuôi dưỡng đến cả những người
già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ thế mà được yên thân. Phép tắc như vậy
có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều ở đấy cả".
Lý Thường Kiệt là một anh hùng dân
tộc bậc nhất của đời Lý mà tên tuổi và sự nghiệp vẫn sáng chói mãi trong lịch
sử vinh quang của dân tộc!
Smith Peter |