Hai nhiệm kỳ của ông không hề êm ả. Khủng hoảng kinh tế- tài chính diễn
ra trên phạm vi toàn cầu, vấn đề biển Đông ngày càng nóng bỏng, cộng với sự
chống phá điên cuồng của bè lũ “rân chủ”,…ông vẫn đầy bản lĩnh, tự tin đưa đất
nước Việt Nam tiến lên.
Gần 8 năm ông nắm quyền điều hành Chính phủ, dẫu vẫn còn đó nhiều khiếm
khuyết, song nền kinh tế Việt Nam dưới sự chèo lái của ông vẫn đứng vững qua
bao phong ba. Vị thế của dân tộc mình ngày càng được nâng cao trên trường quốc
tế. Gần 8 năm ấy, Việt Nam
đã gia nhập WTO, đã trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ
khóa 2008- 2009, là thành viên nắm vai trò quan trọng trong khu vực ASEAN…
Trong các diễn đàn quốc tế, ngài Thủ tướng luôn xuất hiện với sự tự tin,
cởi mở, hữu hảo nhưng cũng đầy đanh thép trong những tuyên bố của mình- tuyên
bố đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Ông là một nhà ngoại giao xuất sắc.
Rất nhiều báo chí nước ngoài đã dành tặng cho ông những “lời có cánh”.
Tham gia đối thoại Shangri- la, một diễn đàn an ninh của khu vực châu
Á- Thái Bình Dương đặc biệt đề cập đến những vấn đề nóng bỏng, là cơ hội đề
Việt Nam thề hiện thế và lực của mình. Trọng trách ấy được đặt lên vai Thủ
tướng, và ông đã làm rất tốt điều này. Ông đã có một bài phát biều đầy ấn
tượng, đồng thời trả lời hàng loạt phóng viên nước ngoài về vấn đề biển Đông.
Ông là ngôi sao sáng trên diễn đàn chính trị- an ninh quốc tế này, góp phần
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bài phát biều của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị Shangri- la về
vấn đề “xây dựng lòng tin chiến lược” đã trở thành tâm điểm của Hội nghị này.
Xin giới thiệu với quý độc giả toàn văn bài phát biểu ấy:
“Thưa Ngài Thủ tướng Lý Hiển
Long,
Thưa Tiến sĩ John Chipman,
Thưa Quý vị và các bạn,
Trước
hết, tôi xin chân thành cảm ơn ngài Lý Hiển Long, Thủ tướng nước chủ nhà
Singapore, Tiến sĩ John Chipman và Ban Tổ chức Đối thoại Shangri-La 12 đã mời
tôi dự và phát biểu khai mạc diễn đàn quan trọng này. Sau 12 năm kể từ khi ra
đời, Đối thoại Shangri-La thực sự đã trở thành một trong những diễn đàn đối
thoại về hợp tác an ninh thực chất và hữu ích nhất ở khu vực. Tôi tin rằng sự
có mặt của đông đảo các quan chức Chính phủ, các nhà lãnh đạo quân đội, các học
giả có uy tín và toàn thể Quý vị tại đây thể hiện sự quan tâm, nỗ lực cùng nhau
gìn giữ hòa bình và an ninh cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong một thế
giới đầy biến động.
Thưa Quý vị và các bạn,
Ngôn
ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau:
nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm
tin. Việt Nam
chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn
của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những
toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp
không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung
và với thái độ chân thành.
Trong
thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung vốn là
chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu
vực này luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình. Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh
vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Nói cách
khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây
dựng lòng
tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương.
Đó cũng là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ với quý vị và các bạn tại diễn đàn hôm
nay.
Trước
hết, Việt Nam chúng tôi có niềm tin sâu sắc vào tương lai tươi sáng trong hợp
tác phát triển của khu vực, nhưng với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự -
nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực cũng tiềm ẩn những rủi
ro tiêu cực mà chúng ta cần phải cùng nhau chủ động ngăn ngừa.
Khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và là nơi tập trung ba
nền kinh tế lớn nhất thế giới và nhiều nền kinh tế mới nổi. Xu thế hợp tác,
liên kết đa tầng nấc, đa lĩnh vực đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng
thể hiện là xu thế chủ đạo. Điều này là cơ hội hết sức lạc quan cho tất cả
chúng ta.
Tuy
nhiên, nhìn lại bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua, chúng ta cũng
không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với
hòa bình và an ninh.
Cạnh
tranh và can dự vốn là điều bình thường trong quá trình hợp tác và phát triển.
Nhưng nếu sự cạnh tranh và can dự đó mang những toan tính chỉ cho riêng mình,
bất bình đẳng, trái với luật pháp quốc tế, thiếu minh bạch thì không thể củng
cố lòng tin chiến lược, dễ dẫn tới chia rẽ, nghi kỵ và nguy cơ kiềm chế lẫn
nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển.
Những
diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ
Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an
ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan
ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao
sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp
quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.
Tôi
muốn lưu ý thêm rằng lưu thông trên biển chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa ngày càng
lớn. Theo nhiều dự báo, sẽ có trên 3/4 khối lượng hàng hóa thương mại toàn cầu
được vận chuyển bằng đường biển và 2/3 số đó đi qua Biển Đông. Chỉ cần một hành
động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ
này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh
chịu hậu quả khôn lường.
Trong
khi đó, các nguy cơ xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, ly
khai, bạo loạn, khủng bố, an ninh mạng… vẫn hiện hữu. Những thách thức mang
tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, nước biển dâng; dịch bệnh; nguồn nước và
lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn, hạ nguồn của các con sông chung… ngày
càng trở nên gay gắt.
Có
thể nhận thấy những thách thức và nguy cơ xung đột là không thể xem thường. Mọi
người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự,
nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì
vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây
dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác,
thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt
Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và
chân thành
Thứ hai, để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.
Trong
lịch sử thế giới, nhiều dân tộc đã phải gánh chịu những mất mát không gì bù đắp
được khi là nạn nhân của tham vọng cường quyền, của xung đột, chiến tranh.
Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế
và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân
loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng
tin chiến lược.
Mỗi
quốc gia luôn phải là một thành
viên có trách nhiệm đối
với hòa bình và an ninh chung. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cao hơn là có lòng tin chiến lược vào nhau. Các
nước lớn có vai trò và có thể đóng góp nhiều hơn, đồng thời có trách nhiệm lớn
hơn trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Mặt khác, tiếng nói
đúng đắn cũng như sáng kiến hữu ích không phụ thuộc là của nước lớn hay nước
nhỏ. Nguyên tắc hợp tác, đối thoại bình đẳng, cởi mở trong ASEAN, các diễn đàn
do ASEAN khởi xướng và ngay Đối thoại Shangri-La của chúng ta cũng được hình thành
và duy trì trên cơ sở tư duy đó.
Tôi
hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Ngài Susilo Bambang Yudhoyono, Tổng thống nước
Cộng hòa Indonesia tại diễn đàn này năm ngoái là các nước vừa và nhỏ có thể gắn
kết cùng các nước lớn vào một cấu trúc bền vững ở khu vực. Tôi cũng đồng tình
với ý kiến của Ngài Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long trong bài phát biểu tại
Bắc Kinh tháng 9/2012 cho rằng sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc sẽ đóng góp tích cực cho lợi ích chung của khu vực. Chúng ta đều hiểu
rằng Châu Á - Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước trong và ngoài khu
vực cùng hợp tác và chia sẻ lợi ích. Tương lai của Châu Á - Thái Bình Dương đã
và sẽ tiếp tục được tạo dựng bởi vai trò và sự tương tác của tất cả các quốc
gia trong khu vực và cả thế giới, nhất là các nước lớn và chắc chắn trong đó
không thể thiếu vai trò của ASEAN.
Tôi
tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các
nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn
định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước
lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn
nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất)
đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới.
Điều quan trọng là sự kỳ vọng đó cần được củng cố bằng lòng tin chiến lược và
lòng tin chiến lược cần được thể hiện thông qua những hành động cụ thể mang
tính xây dựng của các quốc gia này.
Chúng
ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và
của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa
Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này
tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa
đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định,
hợp tác và thịnh vượng chung.
Tôi
muốn nhấn mạnh thêm là, các cơ chế hợp tác hiện có trong khu vực như Diễn đàn
Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… cũng như Đối thoại Shangri-La đã tạo ra
nhiều cơ hội để đẩy mạnh hợp tác an ninh đa phương và tìm giải pháp cho những
thách thức đang đặt ra. Nhưng có thể nói rằng, vẫn còn thiếu – hay ít nhất là
chưa đủ - lòng tin chiến lược trong việc thực thi các cơ chế đó. Điều quan
trọng trước hết là phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau trước các thử thách, các
tác động và trong tăng cường hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, các tầng nấc, cả
song phương và đa phương. Một khi có đủ lòng tin chiến lược,
hiệu quả thực thi của các cơ chế hiện có sẽ được nâng lên và chúng ta có thể
đẩy nhanh, mở rộng hợp tác, đi đến giải pháp về mọi vấn đề, cho dù là nhạy cảm
và khó khăn nhất.
Thứ
ba, nói đến hòa bình, ổn định, hợp tác, thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương, chúng ta không thể không nói đến một ASEAN đồng thuận, đoàn
kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.
Khó
có thể hình dung được một Đông Nam Á chia rẽ, xung đột trong Chiến tranh Lạnh
lại có thể trở thành một cộng đồng các quốc gia thống nhất trong đa dạng và
đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang định hình ở khu vực như ASEAN ngày
nay. Sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN năm 1995 đánh dấu thời kỳ phát triển
mới của ASEAN, tiến tới hình thành một ngôi nhà chung của tất cả các quốc gia Đông Nam Á
đúng với tên gọi của mình. Thành công của ASEAN là thành quả của cả quá trình
kiên trì xây dựng lòng tin và văn hóa đối thoại, hợp tác cũng như ý thức trách
nhiệm chia sẻ vận mệnh chung giữa các nước Đông Nam Á.
ASEAN
tự hào là một hình mẫu của nguyên tắc đồng thuận và lòng tin vào nhau trong các
quyết định của mình. Đó là nền tảng tạo sự bình đẳng giữa các thành viên cho dù
là một Indonesia với dân số
gần 1/4 tỷ người và một Brunei
với dân số chưa đến nửa triệu người. Đó cũng là cơ sở để các nước ngoài khu vực
gửi gắm lòng tin vào ASEAN với tư cách là “người trung gian thực tâm” trong vai trò dẫn dắt nhiều cơ chế hợp
tác khu vực.
Với
tư duy cùng chia sẻ lợi ích, không phải “kẻ được – người mất”, việc mở rộng Cấp
cao Đông Á (EAS) mời Nga và Hoa Kỳ tham gia, tiến trình ADMM+ đã được hiện thực
hóa tại Việt Nam năm 2010 và thành công của EAS, ARF, ADMM+ những năm tiếp theo
đã củng cố hơn nữa nền tảng cho một cấu trúc khu vực với ASEAN đóng vai trò
trung tâm, đem lại niềm tin vào tiến trình hợp tác an ninh đa phương của khu vực
này.
Tôi
cũng muốn đề cập trường hợp của Myanmar như một ví dụ sinh động về kết quả của
việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các
lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho
Myanmar mà cho cả khu vực chúng ta.
Đã
có những bài học sâu sắc về giá trị nền tảng của nguyên tắc đồng thuận, thống
nhất của ASEAN trong việc duy trì quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với các nước
đối tác và phát huy vai trò chủ động của ASEAN trong những vấn đề chiến lược của
khu vực. ASEAN chỉ mạnh và phát huy được vai trò của mình khi là một khối đoàn
kết thống nhất. Một ASEAN thiếu thống nhất sẽ tự đánh mất vị thế và không có
lợi cho bất cứ một ai, kể cả các nước ASEAN và các nước đối tác. Chúng ta cần
một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung
tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà
các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi
ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn. Trách nhiệm của chúng ta
là nhân thêm niềm tin trong giải quyết các vấn đề, trong tăng cường hợp tác
cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia
khác và của cả khu vực.
Việt
Nam cùng các nước ASEAN luôn mong muốn các nước - đặc biệt là các nước lớn, ủng
hộ vai trò trung tâm, nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết thống nhất của cộng
đồng ASEAN.
Trở
lại vấn đề Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau vượt qua một chặng đường
khá dài và cũng không ít khó khăn để ra được Tuyên bố về ứng xử của các bên
trên Biển Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Phnom Penh năm 2002. Nhân kỷ
niệm 10 năm ký và thực hiện DOC, các bên đã thống nhất nỗ lực tiến tới Bộ quy
tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm,
cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC,
nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế,
đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Chúng
tôi cho rằng, ASEAN và các nước đối tác có thể cùng nhau xây
dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu
vực. Làm được như vậy sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh, an
toàn, tự do hàng hải và tạo điều kiện để giải quyết các tranh chấp, mà còn
khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong việc gìn giữ hòa bình, tăng cường hợp
tác, phát triển của thế giới đương đại.
Đối
với các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức khác – trong đó có an
ninh nguồn nước trên các dòng sông chung, bằng việc xây dựng lòng tin chiến
lược, tăng cường hợp tác, hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chung, tôi tin
rằng chúng ta cũng sẽ đạt được những thành công, đóng góp thiết thực vào hòa
bình, hợp tác, phát triển của khu vực.
Thưa Quý vị và các bạn,
Trong
suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến
tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc
củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên
thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ quyền
của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt về lợi
ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và
tôn trọng lẫn nhau.
Chúng
ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền
thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng
tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Việt
Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ lực làm sâu sắc
thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với
các quốc gia. Chúng tôi mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất
cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ một khi nguyên tắc độc
lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn
nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi được cam kết và nghiêm túc thực hiện.
Nhân
diễn đàn quan trọng này, tôi trân trọng thông báo, Việt
Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc,
trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự.
Chính
sách quốc phòng của Việt Nam
là hòa bình và tự vệ. Việt Nam
không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ
quân sự trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam
không liên minh với nước này để chống lại nước khác.
Những
năm qua, việc duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao đã tạo điều kiện cho Việt Nam tăng ngân
sách quốc phòng ở mức hợp lý. Việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam chỉ nhằm
tự vệ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, không nhằm vào bất cứ quốc gia nào.
Đối
với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo
Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì
nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn
trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều
phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Một
lần nữa, Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của
ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc
thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt
là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.
Thưa Quý vị và các
bạn,
Hòa
bình, hợp tác và phát triển là lợi ích, là nguyện vọng tha thiết, là tương lai
chung của các quốc gia, các dân tộc. Trên tinh thần cởi mở của Đối thoại
Shangri-La, tôi kêu gọi tất cả chúng ta bằng những hành động cụ thể hãy cùng
chung tay xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì một Châu Á - Thái Bình
Dương hòa bình, hợp tác, thịnh vượng.
Xin cảm ơn Quý vị và các bạn”.
Với bài phát biểu này, ông đã hoàn
thành xuất sắc vai trò diến giả chính tại diễn đàn Shangri- la. Cụm từ “xây
dựng lòng tin chiến lược” được lặp lại đến 17 lần đã trở thành trung tâm cho
các cuộc thảo luận sau đó. Giữa một diễn đàn có sự hiện diện của nhiều quốc gia
lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, tiếng nói của người đại diện cho Đảng và Nhà
nước ta vẫn đầy sức thuyết phục và có khả năng lan tỏa rõ rệt.
Cần nhấn mạnh rằng, đây không phải
lần đầu tiên Thủ tướng Việt Nam “tỏa sáng” trong các diễn đàn, hội nghị như
thế. Ông vẫn luôn là vậy. Một con người đã được tôi luyện trong quân ngũ từ năm
12 tuổi, đã trải qua rất nhiều cương vị khác nhau trên các lĩnh vực quốc phòng,
an ninh, kinh tế, ngoại giao,…sự bản lĩnh và tự tin luôn là phẩm chất nổi bật
trong ông.
Vượt trên mọi hoài nghi, ông xứng
đáng “đến từng xu” với vai trò Thủ tướng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Nguồn Kenhvietnam
Nguồn Kenhvietnam