• CHỦ QUYỀN VIỆT NAM LÀ BẤT KHẢ XÂM PHẠM


    vào lúc Thứ Bảy, tháng 5 25, 2013
    Hãy like nếu bài viết có ích →

                                           

    Biển Đông hiện nay có tranh chấp giữa 5 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nổi lên vấn đề bá quyền của Trung Quốc trong âm mưu độc chiếm Biển đông. Thiết nghĩ, những người Việt yêu nước phải nhận thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia, đấu tranh chống lại miệng lưỡi xuyên tạc, bóp méo sự thật của bọn bành trướng phương Bắc. Tranh chấp diễn ra chủ yếu trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc.

     Ở Hoàng Sa hiện có trên 30 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm trên vùng biển có diện tích khoảng 16.000 km2, cách đảo Lý Sơn của ta khoảng 120 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải lý. Diện tích toàn bộ hần đất nổi của quần đảo khoảng 10 km2. Ở Hoàng Sa, Trung Quốc chiếm đảo lớn nhất của ta là đảo Phú Lâm vào năm 1965, nơi hiện nay chúng đang tích cực xây dựng trụ sở ủy ban hành chính Tam Sa một cách trái phép.

      Quần đảo Trường Sa hiện có hơn 100 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn, vùng biển có diện tích rộng khoảng 160.000 - 180.000 km2, cách Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 243 hải lý, cách đảo Phú Quý (Bình Thuận) khoảng 203 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 585 hải lý. Diện tích toàn bộ phần nổi của quần đảo khoảng 10 km2.

    Ở Trường Sa, Philippin hiện chiếm giữ 05 đảo và điểm đảo từ năm 1971 ; Malaixia chiếm giữ 7 điểm đảo ở Phía Nam. Trung Quốc lợi dụng tình hình khó khăn của Việt Nam, ngày 14/3/1988 chúng gây nên cuộc Hải chiến Trường Sa, cướp đi sinh mạng của 64 Liệt sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng và chiếm đóng 07 bãi đá ngầm thuộc Quần đảo Trường Sa, đến năm 2005 chúng đánh chiếm tiếp 02 điểm đảo thuộc Philippin quản lý. Như vậy, hiện nay Trung Quốc chiếm 9 điểm đảo. Còn Việt Nam giữ nguyên được chủ quyền biển đảo từ sau năm 1988 đến nay, không để bất cứ một thế lực bành trướng nào xâm phạm dù chỉ một tấc đất, một mét nước.

    Về lịch sử chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, theo các nhà nghiên cứu cho đến thế kỷ XVII, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo vô chủ. Vào nửa đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã tổ chức “Đội Hoàng Sa” hàng năm ra Hoàng Sa thu lượm hải vật, đánh bắt hải sản, đo vẽ, trồng cây và dựng mốc trên đảo; đến nửa đầu thế kỷ XVIII, tổ chức thêm “Đội Bắc Hải” ra Trường Sa làm nhiệm vụ như “Đội Hoàng Sa”.

     Liên tục từ đó, Việt Nam đã có nhiều hoạt động cũng cố chủ quyền trên 02 quần đảo Hoàng sa, Trường sa như: Năm 1925, duy trì tuần tra trên đảo, đưa quân đội trú đóng; năm 1933-1938, thành lập đơn vị hành chính, đặt cột mốc, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện; lên tiếng phản đối các nước yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa; năm 1951, khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội nghị San Francisco mà không gặp phải ý kiến phản đối nào; năm 1956, quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy và năm 1961, chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên về tỉnh Quảng Nam quản lý; năm 1977 tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; năm 1982, thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; năm 1994, tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia; tháng 4/2007, thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện đảo Trường Sa; hiện nay, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa… Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với 02 quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa, khẳng định 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu hòa bình, quản lý liên tục, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường sa. Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Biển Việt Nam vào ngày 21/6/2012.

    Còn Trung Quốc thì sao?

    Âm mưu bành trướng của Trung Quốc đã có từ hàng ngàn năm ngay từ khi nó ra đời. Theo thống kê trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có đến 16 cuộc chiến thì đã có tới 14 cuộc chiến chống xâm lược phương Bắc. Và lịch sử cũng chứng minh rằng trong 14 cuộc chiến đó, thì Việt Nam đều giành chiến thắng vẻ vang, tạo nên nỗi khiếp sợ ngàn đời với chủ nghĩa bá quyền phương Bắc. Hẳn quốc dân đồng bào còn nhớ đến vẻ khiếp sợ của tên Thái thú Tô Định phải cạo râu tóc, giả gái để trốn khỏi nước Nam, khiếp sợ uy quyền của nữ tướng Hai Bà Trưng, còn nhớ Thoát Hoan phải chui vào ống đồng bắt quân lính khiêng để cút khỏi nước Việt,.. và đến cuộc chiến 1979 cũng vậy, Trung Quốc cũng phải ghánh chịu thất bại nặng nề và cút khỏi lãnh thổ Việt Nam trước khi quân chủ lực của Việt Nam từ chiến trường Campuchia kịp trở về.

    Những tấm gương nhãn tiền như thế mà chúng không biết sợ là gì, lại tiếp tục có những hành động gây hấn trên Biển Đông hòng cướp chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quy định của Công ước quốc tế và luật biển năm 1982.

    Về tấm bản đồ 9 khúc (lưỡi bò) của Trung Quốc, trong lịch sử của Trung Quốc trước năm 1947 chưa hề có, các nghiên cứu của các học giả thông thái trên thế giới với những chứng minh lịch sử đã chứng minh điều đó là không thể chối cãi. Năm 1947, chính quyền của Tưởng Giới Thạch cho vẽ bản đồ của Trung Hoa gồm 11 khúc theo hình chữ U chứ không phải là 9 khúc như hiện nay, từ đó đến nay, Chính quyền Trung Quốc liên tục giáo dục người dân Trung Hoa là có lãnh thổ trên biển theo hình chữ U mà chúng quên mất rằng trước đó hàng ngàn năm Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo đó. Điểm cực nam của tấm bản đồ vô lý này cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 40 Hải lý (vi phạm cong ước quốc tế về Luật Biển năm 1982, quy định lãnh hải quốc gia ven biển là 200 hải lý). Về phía Nam, bản đồ hình chữ U này cách đường cơ cở của Malaixia mấy chục Hải lý, và nó nằm ngay trên đường cơ sở trong lãnh hải của Philippin.

    Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10 năm 2011. Khi làm việc với Hồ Cẩm Đào và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, bàn đến tấm bản đồ hình lưỡi bò, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào nói: “Vừa rồi Việt Nam đã khai thác mấy trăm triệu tấn dầu trong đường 9 khúc của Trung Quốc, đề nghị Việt Nam dừng khai thác bởi vì đó là vùng biển của Trung Quốc

    Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đáp lời: “Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền 200 hải lý theo Công ước quốc tế về luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, chúng tôi khẳng định điều đó. Nếu Trung Quốc không đồng ý thì Việt Nam và Trung Quốc cùng đưa ra Tòa án Quốc tế. Nếu Tòa án quốc tế phán xét như thế nào thì chúng tôi chấp nhận như thế ấy” .

    Hồ Cẩm Đào nói: “Nếu nói như thế thì chúng ta cần gì ngồi đây để bàn”.

    Trung Quốc không có bằng chứng cho sự phi lý của mình đối với tấm bản đồ hình lưỡi bò, nên rất sợ ra Tòa án quốc tế, chúng sợ dư luận quốc tế nên chỉ dám đàm phán song phương không dám đàm phán đa phương. Trần Ái Quốc tôi thiết nghĩ để có hình lưỡi bò thì phải có chủ thể của nó là con bò. Con bò lè lưỡi liếm thì mới ra hình lưỡi bò. Phần suy luận thế nào tùy độc giả phán đoán và kết luận. Là con bò mà cười thì làm gì có đủ hai hàm răng như con người được. Nên con bò bao giờ cũng ngu và đuối lý, hèn kém trước con người./.
    Nguồn Blog Congdanvietnam2

    Công dân Việt với tình hình của đất nước

    Recent Post

    Note Đóng lại

    Template Information

    ĐIỆN ẢNH

    Test Footer

    primaryBottomSidebar

    CHÚ Ý

    Translate

    Rank Trafic

    Lưu trữ Blog

    Lượt xem