Theo Tiengnoitre
Tết Nguyên Đán – có lẽ trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam rất
ý nghĩa, thiêng liêng và quan trọng. Đối với người Việt, Tết là dịp để được vui
chơi, mua bán, họp mặt, nghỉ ngơi… Và “ăn Tết” là cụm từ đa dạng, bao hàm
nhiều nghĩa: đón Tết, chúc Tết, chơi Tết… Những thương nhân mong Tết để bán
được nhiều hàng hóa hơn, công nhân viên chức thì muốn nghỉ ngơi, giải trí, thăm
nom bạn bè, họ hàng; trẻ con thì mong có thêm quần áo mơi, nhận được những
đồng tiền mừng tuổi… Tết mang đến cho người Việt những niềm hân hoan, vui
mừng…Những gì tốt đẹp mà Tết mang lại từ lâu đã trở thành nhu cầu tất yếu trong
đời sống của người dân Việt. Đó là những phong tục, tập quán, truyền thống không
thể nào rời bỏ, tạo nên một bản sắc văn hóa rất “Việt Nam”:
Ông Công, ông Táo
Tết Nguyên Đán bắt đầu từ ngày mồng một tháng Giêng, nhưng thực ra
người Việt đã sửa soạn Tết ngay từ đầu tháng Chạp. Người xưa lấy bảy ngày trước
và bảy ngày sau (tức là từ 23 tháng Chạp đến mùng 7 tháng Giêng) làm thời gian
ăn Tết. Trong không khí tất bật của những ngày cuối năm, người Việt không quên
phong tục đã có từ lâu đời là ngày tiễn ông Công, ông Táo về chầu trời – ngày 23
tháng Chạp. Theo tín ngưỡng dân gian, ông Công ông Táo (Táo Quân) là sứ giả
nhà Trời, chuyên coi việc bếp núc, củi lửa của trần gian, đồng thời xem nhân tình
tốt xấu thế nào trong từng gia đình để hằng năm về Trời báo cáo. Dân ta làm lễ
cúng ông Công, ông Táo với mong muốn Ngài sẽ về Trời báo cáo cho Ngọc Hoàng
những gì tốt đẹp nhất của gia đình trong năm qua, nhờ đó gia chủ sẽ được hưởng
nhiều tài, lộc trong năm tiếp theo.
Ảnh: Ông Công, ông Táo về chầu Trời
Là dịp để con cháu đi xa quanh năm mong muốn được trở về sum họp cùng
cha mẹ, họ hàng, gia đình. Tết là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên, thiêng liêng, ấm
cúng.
Dân gian ta từ xưa có câu: “No ba ngày Tết, đói ba tháng hè” hay “muốn
ăn Tết to, phải lo nhiều thứ”, quanh năm làm ăn vất vả có thể đói kém, thiếu thốn
nhưng mỗi dịp Tết đến xuân về, dù khó khăn đến mấy thì nhà nào cũng phải cố
gắng chuẩn bị đầy đủ, chu đáo cho bằng anh bằng em, bằng bạn bằng bè. Từ hạt
muối, mớ rau thơm, bánh chưng, nồi thịt đông, con gà, mâm ngũ quả, hương nến
cúng ông bà tổ tiên.
“Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”
Thường thì cứ cúng ông Công ông Táo (23 Tết) thì khắp nơi nơi, ta có thể
cảm nhận không khí Tết. Các gian hàng khắp phố phường bày la liệt đủ mọi thứ,
mọi màu sắc: tranh ảnh, câu đối, đồ trang trí ngày Tết, quần áo mới, bánh kẹo, trái
cây, hoa và cây cảnh các loại (nhiều nhất là đào, mai, quất), thứ gì cũng ngon, cũng
đẹp, cũng hấp dẫn. Chẳng ai tính toán thiệt hơn, đắt rẻ, ai cũng cố gắng mua cho
mình được những thứ thật đẹp, thật ngon, mua về bày biện, để mời khách ăn, cho
“phát tài, phát lộc”. Đi chợ Tết thì mệt nhưng ai cũng háo hức. Các phiên chợ bắt
đầu từ 27 đến 30 là náo nhiệt nhất, người bán, kẻ mua, hàng hóa tràn ngập: “Đất
thì lầy lội, người thì đông, chen chúc xô đẩy ồn ào, mình mệt đứt hơi mà cứ phải
đi theo xách làn mây lẽo đẽo, lắm lúc muốn thở hắt ra đi về. Nhưng nghĩ thế mà
thôi, chứ chợ Tết có một sức hấp dẫn kì lạ, muốn về nhưng cứ muốn đi, để xem
thiên hạ mua bán, để xem bao nhiêu cái ngon, cái đẹp của quê hương, để đi xem chợ
Tết” (Nhà văn Vũ Bằng trong cuốn “Thương nhớ mười hai”). Chợ Tết ở Việt Nam
không chỉ là câu chuyện về cuộc sống làm ăn, mà còn là những nét đẹp văn hóa
phong tục nữa…
Sau khi sắm Tết xong, người Việt có tục đi tảo mộ vào ngày 30 Tết, thắp
hương khấn mời gia tiên, ông bà đã khuất về ăn Tết cùng con cháu.
Bàn thờ tổ tiên thường được bày trí rất đẹp mắt, tụ họp được hương sắc và vẻ
đẹp của cảnh vật ngày xuân. Đó là mâm ngũ quả, gồm năm loại trái cây có ý nghĩa
như:
Đào: Học đâu đỗ đó, thăng quan tiến chức
Bưởi: Người già mạnh khỏe, sống lâu
Quýt: Tài lộc phát hung
Dứa: Gia đình quyền quý cao sang, tiếng thơm muôn đời
Dưa hấu (xanh vỏ, đỏ lòng): lao động tự lực cánh sinh. Người Việt còn dán
một mảnh giấy đỏ viết chữ Phúc hoặc Lộc lên trên.
Thêm vào đó là đĩa trầu, quả cau, bình vôi: tượng trưng cho tình nghĩa mặn
nồng, keo sơn, găn bó.
Thức ăn truyền thống được dâng lên bàn thờ cúng ông bà, tổ tiên lầ: bánh
chưng, bánh giày – là biểu tượng không thể thiếu được của người dân Việt, cũng là
món ăn truyền thống trong mâm cơm ngày Tết.
Vốn là tín ngưỡng sâu thẳm nhất trong tâm thức của người Việt. Chiều 30
Tết, người ta sửa soạn mâm cơm tất niên để cúng gia tiên, hướng về nguồn cội, rước
ông bà về dùng cơm, chung vui với gia đình, bày tỏ tấm lòng thành kính của con
cháu.
Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc giao thừa. Giao thừa là thời khắc thiêng liêng,
giao tiếp giữa hai năm cũ mới. Theo từ nguyên, giao thừa là “giao lại cái cũ, tiếp
lấy cái mới”. Dân gian tin rằng có 12 ông hành khiển điều hành mọi công việc trần
gian, mỗi năm một ông. Hết nhiệm kỳ, ông cũ bàn giao công việc cho ông mới.
Cũng vì ý nghĩa này nên có lễ trừ tịch. Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ
sắp bắt qua năm mới, giữa giờ Hợi ngày 30 (hoặc nếu tháng thiếu thì ngày 29 tháng
Chạp) năm trước và giờ Tí ngày mồng một tháng Giêng năm sau. Ý nghĩa của lễ
này là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm sắp qua để đón những cái
mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới. Cúng giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau
đi lễ các đình, chùa, đền, miếu... để cầu phúc, cầu may. Trước cửa đình, cửa chùa
thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xoà, khách đi lễ có tục
mỗi người bẻ một nhánh gọi là hái lộc, với hy vọng cành lộc sẽ đem lại mọi điều tốt
đẹp, may mắn trong năm mới.
Ba ngày Tết người ta đi thăm bà con xóm làng, bạn bè thân thuộc: "Mồng
một tết cha, mồng hai tết mẹ,mồng ba tết thầy". Đến thăm mỗi nhà, trước lễ bàn
thờ gia tiên, sau rồi chúc tết gia chủ, nói chuyện, ăn trầu, hút thuốc. Ai cũng vui
vẻ, chứa chan hy vọng trước mùa Xuân. Gặp nhau, người ta đều cầu chúc cho nhau
những điều tốt đẹp nhất, gói gọn trong năm chữ “Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh”.
Xin chữ đầu xuân
Việc xin chữ đầu năm ngày một trở nên thịnh hành, nó đang trở thành phong
tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên
ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn... ta thường bắt gặp những gương mặt
giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn
là chữ Nho, lại có thêm cả chữ Quốc ngữ, với lợi thế thông dụng, dễ đọc, dễ hiểu.
Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho
người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ theo
ước nguyện của người xin.
Ảnh: Xin chữ đầu xuân
Tết hôm nay cũng vẫn như Tết xưa nhưng văn minh và hiện đại hơn nhiều.
Các gia đình bận bịu làm ăn không thể có một cái Tết thanh thản, thoải mái. Dường
như, Tết hôm nay đã kém đi rất nhiều cái háo hức, thân thương, ấm cúng của một
hương vị Tết cổ truyền đã có từ bao đời nay. Nhưng sao, năm nào cũng một lần đón
Tết, nhưng trong sâu thẳm của mỗi người con đất Việt vẫn có một cảm giác mới lạ,
thân quen, rạo rực…